Vào ngày 5 tháng 6 năm 1911 tại bến
cảng nhà rồng, Hồ Chí Minh lúc đó tên là Nguyễn Tất Thành rời bến Nhà Rồng trên
con tàu Đô đốc Latouche-Tréville lên đường sang Pháp với tên gọi Văn Ba để học
hỏi những điều mà ông cho là "tinh hoa và tiến bộ" từ các nước phương
Tây nhằm thực hiện công cuộc giải phóng Việt Nam khỏi ách thuộc địa của Thực dân Pháp...
Sinh ra và lớn lên trước cảnh nước
mất, nhân dân Việt Nam rơi vào cảnh thống khổ lầm than, Nguyễn Tất Thành
(Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) quyết tâm đến tận “sào huyệt” của chủ nghĩa tư
bản để tìm hiểu hòng tìm ra con đường cứu nước.
1. Hành trình ra đi tìm đường cứu nước
Bắt đầu từ Huế,
tháng 5 năm 1909,
Nguyễn Tất Thành xuất phát từ Huế và đi theo cha mình là cụ
Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc vào huyện Bình Khê thuộc
tỉnh Bình Định. Tháng 9 năm 1909, Nguyễn Tất Thành
được cha gửi đến Quy Nhơn để học thêm tiếng Pháp với thầy giáo Phạm
Ngọc Thọ dạy tại Trường tiểu học Pháp - bản xứ Quy Nhơn theo chương trình
lớp cao đẳng.
Tháng 8 năm 1910, Nguyễn Tất Thành rời Quy Nhơn, đi vào Sài Gòn. Từ nửa sau
tháng 9 năm 1910 đến trước tháng 2 năm 1911, Nguyễn Tất Thành dạy học ở trường Dục Thanh thuộc tỉnh Phan Thiết
(nay là tỉnh Bình Thuận).
Ngày 2 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành xin
làm việc ở tàu Đô đốc Latouche-Tréville của hãng vận tải Hợp nhất (Compagnie
des Chargeurs réunis), thường được gọi nôm na là hãng Nǎm Sao đang chuẩn bị
rời Cảng Sài Gòn đi Marseille,
Pháp. Lúc tàu này cập cảng Sài Gòn, Ông xuống tàu và gặp viên thuyền trưởng tên
là: Lui E-du-a Mai-sen. Ông thuyền trưởng hỏi rằng anh có thể làm được việc gì?
Ông trả lời: Tôi có thể làm bất cứ công việc gì. Sau đó thuyền trưởng nhận
Thành vào làm phụ bếp.
Ngày 3 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành bắt đầu làm việc ở tàu Đô đốc
Latouche-Tréville, nhận thẻ nhân viên của tàu với tên mới là Văn Ba. Lúc này
trên tàu cũng có một người thủy thủ Việt Nam làm việc có
tên gọi là Nguyễn Văn Ba. Lương của Văn Ba được lãnh là 50 franc Pháp, trong
khi những người bồi bàn Pháp
làm việc rất nhàn nhã lãnh lương gấp 3 lần lương của ông.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành trong công việc là
người phụ bếp chính thức lên đường sang Pháp trên chiếc tàu buôn Đô đốc
Latouche-Tréville để tìm "tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc
tôi"
2. Tiếp
thu học thuyết Mác - Lê nin
Từ nǎm 1911 đến
nǎm 1920, Nguyễn Tất Thành đã đến nhiều nước ở bốn châu lục là châu Âu, châu
Phi , châu Mỹ, châu Á, để nghiên cứu và học hỏi để tìm đường cứu nước. Nǎm 1919
các nước đế quốc thắng trận họp Hội nghị Véc-xây (Versailles) để phân chia thị trường thế giới.
Nhân dịp này Nguyễn Ái Quốc (tên mới của Nguyễn Tất Thành) thay mặt những
người Việt Nam yêu nước tại Pháp, đã gửi tới Hội nghị Véc-xây bản yêu sách “tám
điểm” đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam.
Tháng 7 nǎm 1920
qua báo Nhân đạo (L'Humanité- Pháp), Nguyễn Ái Quốc đọc được tác phẩm “Luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I Lê nin. Sau này nhớ lại
với niềm vui sướng khôn tả, Hồ Chí Minh viết: "Luận cương của V.I
Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng biết bao! Tôi vui
mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang
nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là
cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta.
Nguyễn Ái Quốc là đại biểu duy nhất của nhân dân Đông Dương tham dự Đại hội lần
thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tua (Tours). Tại Đại hội này Nguyễn Ái Quốc đã bảo
vệ chủ nghĩa Mác, chống lại những người cơ hội, tố cáo tội ác của thực dân Pháp
ở Đông Dương, kêu gọi giai cấp công nhân và nhân dân Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh
chính nghĩa của nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước thuộc địa khác. Tại Đại
hội này Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) và trở thành
một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Như vậy là trong quá trình tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc đã đi qua bốn châu
lục, khảo sát nhiều nước thuộc địa và những nước tư bản tiên tiến điển hình
thời bấy giờ, đã tiếp xúc nhiều người, nhiều nhà tư tưởng nhưng tất cả chưa
mang lại lời giải cho cách mạng Việt Nam, chỉ có Lê nin và Quốc tế III là ủng
hộ phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng thuộc địa, nên trong tác phẩm
Đường Cách Mệnh Người chỉ rõ: bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mã khắc tư và Lê
nin.
Người đã tham gia nhiều hoạt động thực tiễn và lý luận rất sôi nổi như: tham
gia Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội Liên
hiệp thuộc địa, viết bài và tham gia xuất bản báo (tờ Le Paria), viết bài tuyên
truyền chủ nghĩa Mác – Lê nin về Việt Nam và các nước thuộc địa.
Như vậy là đã rõ, khi tiếp cận được chủ nghĩa Mác - Lê nin, Nguyễn Ái Quốc từ
người yêu nước trở thành người cộng sản và đã dứt khoát lựa chọn con đường đi
theo chủ nghĩa xã hội cho cách mạng Việt Nam, theo quỹ đạo của cách mạng vô
sản. Tuy đã là người cộng sản và tin theo chủ nghĩa Mác – Lê nin nhưng con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản là thế nào? thì
năm 1920 Nguyễn Ái Quốc chưa thể hình dung được.
Chính trong quá
trình hoạt động cách mạng sôi nổi và phong phú đó, với sự mẫn tiệp về chính
trị, cùng với sự am tường sâu sắc về lý luận và thực tiễn và đặc biệt hơn là sự
vững vàng, bản lĩnh và rất dũng cảm Nguyễn Ái Quốc đặt vấn đề rằng: học chủ
nghĩa Mác - Lênin là học cái tinh thần cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin để giải quyết những vấn đề của cách mạng nước
ta.
(Nguồn: TS. Ngô Hoàng Anh - CN. Lê Thị Nghệ)